Gác

Tôi không biết người đàn ông ở căn phòng bên cạnh là ai, đến từ đâu, làm nghề gì. Những gì tôi biết về ông ta chỉ gói gọn vẻn vẹn ở chỗ đó là một người đàn ông trung niên, có lẽ ông ta khoảng độ tuổi tứ tuần, và, chẳng còn gì khác nữa. Thỉnh thoảng tôi vẫn thường hay nghe những tiếng ho sặc sụa phát ra từ căn phòng bên cạnh. Tiếng ho có vẻ khàn khàn, trầm trầm và có phần khó nghe, tiếng ho cho thấy đó là một người không được khỏe mạnh, và có lẽ ông ấy đã bệnh từ lâu lắm rồi, một căn bệnh gì đó như lao phổi chẳng hạn. Tôi vẫn thường nghe bà tôi kể về những con người nghèo khổ, phải sống chật vật từng ngày với sự sống và bệnh tật. Bà thường gọi họ là những người khốn khổ, như cách mà Hemingway đã gọi họ trong tác phẩm của mình. Tôi chưa từng đọc tác phẩm ấy, nhưng cũng có thể hình dung ra được phần nào, họ là những con người khốn khổ theo đúng nghĩa đen mà ta thấy, ta nghe được. Như ông, như tôi.

Năm tôi hai mươi hai tuổi, không một đồng xu dính túi, không nghề nghiệp, không người thân, không bạn bè. Năm tôi hai mươi hai tuổi, tôi như vừa mới được trào đời ở thế giới này. Mọi thứ đều là con số không, không tương lai, không bản ngã, không gì cả.

Tôi thường nhìn lên trần nhà vào mỗi buổi tối. Cái trần nhà với những tấm la phong đã ngã màu đen đúa, xung quanh chằng chịt mạng nhện đã lâu không ai quét, mà người có nhiệm vụ quét chúng lại là chính tôi chứ còn ai khác nữa. Căn phòng nhỏ bé và lọt thỏm, tôi có thể nhìn thấy toàn bộ trần nhà cùng với bốn mặt tường, hệt như một người nhìn vào bên trong của chiếc hộp từ phía trên. Tôi cứ nhìn chúng một cách lơ đãng như thế mà chẳng biết phải làm gì, cũng không muốn mình sẽ làm gì.

Sáng sớm tôi ra khỏi phòng, ngày nào cũng vậy. Người đàn ông phòng bên cạnh có lẽ đã trở về trước khi trời sáng, có lẽ ông ấy đang ngủ, cánh cửa đã gài chốt từ phía trong. Tôi lướt ngang qua căn phòng ấy, thỉnh thoảng cũng hay dừng chân lại, chẳng để làm gì cả, rồi lại tiếp tục bước đi, chỉ vậy thôi. Và dường như lúc nào căn phòng ấy cũng đóng kín như vậy cả, chúng chỉ khác nhau ở một điều duy nhất, đó là mỗi buổi tối lúc tôi trở về, nó có thêm một cái ổ khóa ở phía trước. Và cứ như vậy, tôi biết rằng người đàn ông bên cạnh đã đi làm gì đó, tôi cũng không rõ ông ấy đang làm gì, nó có đàng hoàng hay không.

Thỉnh thoảng tôi cũng hay suy nghĩ mông lung về người đàn ông ở căn phòng bên cạnh. Có lẽ ông ta có một gương mặt nhăn nhó đầy khắc khổ, da đen sạm vì nắng, và râu tóc thì dài loằng ngoằng và lấm thấm hoa tiêu vì không được cạo gội. Thỉnh thoảng tôi cũng thế, chẳng bao giờ thèm cạo râu và cắt tóc, rồi cứ để bộ dạng gê gớm như thế mà vác mặt ra bên ngoài. Tôi không sợ, vì tôi không có một người quen nào cả.

Năm hai mươi hai tuổi, tôi không nghề nghiệp, không người thân, không tiền bạc. Tôi thuê được một căn phòng bé tí trong một khu phố cũng bé tí và chật hẹp, xung quanh đầy mùi ẩm móc bóc ra cho thấy đó là một khu phố rẻ tiền và có phần phức tạp. Những con người ở đây, đa phần không ai biết họ từ đâu đến, và họ làm nghề gì. Tôi chỉ nghe thấy những tiếng đóng mở cửa, những tiếng chửi rủa, những âm thanh lộn xộn phát ra từ khắp nơi, họ nói bằng thứ ngôn ngữ khó hiểu cùng với giọng nói cũng khó nghe không kém. Đôi lúc tôi cũng nghe thấy những tiếng cười đùa phát ra từ đâu đó, nhưng rồi nó cũng bị át đi bởi những âm thanh xồm xoàn, chát ngắt từ những mụ đàn bà ở đâu đó. Những con người này có lẽ cũng giống như tôi, họ ở đây vì chẳng còn nơi nào để họ ở nữa cả.

Cũng có vài lần tôi có nghe người đàn ông bên cạnh nói gì đó, tôi không nghe rõ, mà cũng không nghe thấy ai đáp lại. Tôi thường nằm một mình trong phòng, không bật đèn. Tôi cứ để sự tối tăm ấy quấn lấy tôi, rồi không rõ là tôi có nhắm mắt hay là không, tôi bắt đầu lắng nghe, tìm tòi thứ gì đó từ bóng tối sâu thẳm, như cố tìm lấy một đốm sáng le lói trong đêm tối.

Sáng sớm lão trở về, còn tôi lại lao đầu vào guồng quay của cuộc đời. Rồi tối đến, khi tôi mệt mỏi trước số phận, thì lúc này lại có ai khác đang bị nó kéo lê bước chân đi. Chúng tôi có lẽ như hai thái cực của một bản thể, chỉ biết đến sự tồn tại của nhau, nhưng lại chẳng thể nhìn thấy được nhau, như mặt trăng với mặt trời, như màn đên và ánh sáng. Nhưng chúng tôi có một điểm chung duy nhất, chỉ là duy nhất thôi, chúng tôi là những con người khốn khổ như bà tôi vẫn thường gọi.

Vâng, lão là một người khốn khổ, và tôi cũng đang là một con người vô cùng khốn khổ. Có lẽ mười năm nữa, hay thậm chí là hai mươi năm nữa, tôi cũng sẽ như lão, thỉnh thoảng ho sặc sụa rồi trở nên thường xuyên, râu tóc dài lòm xòm và gương mặt đen sạm, nhăn nhó vì nắng bụi. Rồi tôi lại lê bước trong đêm tối để tìm thứ gì đó, để làm thứ gì đó, như mờ ám, như một sự dằn vặt. Như đang tìm lại bản ngã của chính bản thân mình.

Gã chẳng là ai cả, và tôi cũng chẳng là ai cả. Chúng tôi chỉ là những hình thái, những ảo ảnh của thế giới này, có người cho nó là thật, nhưng cũng có người gọi nó là sự giả dối. Thật khó để nói rằng thế giới mà ta đang sống này là thật, hay chỉ là một giấc mơ.

2 Responses

  1. Đọc được một comment của bạn từ 04/11/2015 trên blog của anh Ngọc, đến nay blog vẫn phát triển, đúng là ngưỡng mộ. Thêm nữa, những bài viết của bạn rất thú vị!!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang